Vai trò của Nhà nước đối với phát triển bền vững xã hội Việt Nam hiện nay

Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN – International Union for Conservation of Nature) công bố với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học”.

Tuy nhiên, khái niệm phát triển bền vững đã được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 bởi Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED – World Commission on Environment and Development) còn được biết đến là Ủy ban Brundtland. Ủy ban Brundland đã có những đóng góp đáng ghi nhận vào quá trình phát triển bền vững:

  • Thứ nhất, WCED đề ra trách nhiệm của thế hệ hiện tại phải đảm bảo những cơ hội và lựa chọn phát triển của các thế hệ tương lai thông qua việc bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
  • Thứ hai, WCED đặt ra mục tiêu giảm nghèo ở các nước đang phát triển như là một trục chính mà các nước cần phải vượt qua.
  • Thứ ba, WCED đúc kết lại việc theo đuổi phát triển bền vững trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế bằng cách nhận ra rằng cần phải sắp xếp lại mô hình thương mại quốc tế và dòng vốn cũng như phải đảm bảo được các nước đang phát triển sẽ có ảnh hưởng lớn hơn trong các quan hệ kinh tế đó.

Như vậy, phát triển bền vững là một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp của quá trình phát triển. Là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.

Ảnh: Internet

Khái niệm phát triển bền vững tuy có một chút khác nhau giữa IUCN và WCED nhưng tựu trung lại vấn đề chính vẫn nằm ở “ba thế chân kiềng” là kinh tế, xã hội, môi trường. Đó là ba trụ cột chính của phát triển bền vững.

Đây thực sự là một vấn đề mang tính vĩ mô cần sự tham gia đồng hành của nhiều bên liên quan dưới sự chỉ đạo và các chính sách của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước là cực kỳ quan trọng và không thể thiếu trong công cuộc phát triển bền vững Quốc gia.

Trong những năm gần đây, thực sự Nhà nước ta đã rất chú trọng đến việc phát triển bền vững Quốc gia trên cơ sở các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc. Trước đó, hầu như chúng ta chỉ quan tâm đến việc phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng và lấy đó làm thước đo cho sự phát triển của một đất nước. Đó cũng có thể là xu hướng chung của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, khi mà các thảm họa môi trường, sự bất định trong cuộc sống… ngày một nhức nhối thì việc phát triển đã không còn là yếu tố độc tôn nữa mà thay vào đó phải là việc phát triển bền vững. Và Nhà nước chúng ta đã thể hiện một vai trò hết sức đúng đắn và hợp lý khi đã hướng đến một mục tiêu lớn lao hơn, mang tính toàn cầu hơn, đó chính là mục tiêu phát triển bền vững Quốc gia.

Vai trò của Nhà nước đối với phát triển bền vững xã hội Việt Nam đã thể hiện trên rất nhiều phương diện bởi tính liên ngành, đa ngành và xuyên ngành của phát triển bền vững. Từ ba trụ cột chính là kinh tế, xã hội, môi trường, nó đã lan tỏa ra toàn bộ tất cả các các ngành khác. Không có một ngành nào là không có vai trò gì trong công cuộc này cả. Tất cả các ngành đều là những nhân tố quan trọng, những mắt xích thiết yếu để xây dựng công cuộc phát triển bền vững Quốc gia. Những điều đó càng khẳng định thêm vai trò to lớn của Nhà nước đối với chiến lược mang tính vĩ mô như thế này.

Ảnh: Anh Tuấn – TTXVN

Vậy, Nhà nước đã thể hiện vai trò đó như thế nào? Và tính hiệu quả ra sao khi áp dụng vào thực tiễn? Đó quả thực là những câu hỏi lớn mà chúng ta cần luận bàn ở đây.

Có thể nhận thấy rằng, vai trò lớn lao của Nhà nước đối với phát triển bền vững là rất rộng, đa lĩnh vực. Tuy nhiên có thể tổng hợp lại ở những mặt cơ bản sau đây.

Thứ nhất là về chính sách và luật pháp, Nhà nước ta đã ban hành mới và sửa đổi rất nhiều chính sách từ vi mô đến vĩ mô để phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển bền vững trong rất nhiều lĩnh vực nòng cốt. Đi kèm với việc ban hành, sửa đổi chính sách thì Nhà nước cũng đã có những điều chỉnh về luật pháp để có thể thực thi được các chính sách đó. Đây là điều tất yếu và không thể có một đơn vị, tổ chức nào có thể làm được ngoài Nhà nước. Đó chính là kim chỉ nam cho việc phát triển bền vững Quốc gia. Nếu không có những chính sách và luật pháp này thì việc phát triển vẫn theo những chính sách và đường lối cũ, và do đó việc bền vững là gần như không thể. Tiêu biểu có thể nhắc đến:

– Nghị quyết số 136/NQ-CP do chính phủ ban hành ngày 25/9/2020 về phát triển bền vững, trong đó đã đưa ra 17 mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam.

– Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được ban hành tại Quyết định 122/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 và kế hoạch hành động của bộ, ngành, địa phương thực hiện Chương trình nghị sự 2030, tập trung vào những nội dung, như: Hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách; Tăng cường thông tin, truyền thông; Phát huy vai trò và sự tham gia của các bên liên quan; Bố trí, huy động và tăng cường nguồn lực tài chính; Tăng cường hợp tác Quốc tế.

– Các bộ luật sửa đổi như Luật bảo vệ môi trường, Luật đất đai, Luật khoáng sản, Luật tài nguyên nước…

Thứ hai là về nguồn nhân lực, Nhà nước huy động tất cả mọi Bộ, Ban, Ngành… cho đến tất cả các công dân tham gia vào công cuộc phát triển bền vững Quốc gia. Tất cả đều có những vai trò nhất định và không một ai đứng ngoài cuộc. Với những cơ quan, tổ chức, cá nhân… vẫn còn đang gây trở ngại cho việc phát triển bền vững, ví như các nhà máy sản xuất gây hại đến môi trường, các tổ chức gây rối đến trật tự xã hội, chống phá Nhà nước hay các cá nhân phá hoại rừng, khai thác tài nguyên trái quy định… thì Nhà nước đã có những chế tài nhằm ngăn chặn, dẹp bỏ, kỷ luật. Còn với những cơ quan, tổ chức, cá nhân… khác tham gia tốt, tạo tác động tốt cho việc phát triển bền vững thì Nhà nước cũng có những tuyên dương, khích lệ, động viên. Nếu như trước đây việc tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu chủ yếu do các cá nhân, tổ chức tự đứng ra kêu gọi và thực hiện nhờ việc huy động vốn từ các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận hay từ các quỹ trong và ngoài nước thì nay, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước, các Bộ, Ban, Ngành… đã có tổ chức rất nhiều những chương trình, cuộc thi… về bảo vệ môi trường, về bình đẳng giới, về ứng phó biến đổi khí hậu…

Thứ ba là về truyền thông, quả thực so với những năm trước thì vài năm gần đây, Nhà nước đã làm rất tốt việc truyền thông về phát triển bền vững như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, năng lượng tái tạo, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới… để những thông tin đó được lan rộng khắp mọi miền trong cả nước và đến được với tất cả các địa phương. Đó là một điều rất đáng ghi nhận vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tư duy, ý thức của tất cả mọi người về sự phát triển đất nước đi kèm với yếu tố bền vững. Và khi con người đã có ý thức về điều này rồi thì việc thực thi sự phát triển bền vững sẽ dễ dàng hơn, thuận lợi hơn và hiệu quả hơn.

Thứ tư và về hợp tác Quốc tế, khi thế giới đã “phẳng” thì việc hợp tác Quốc tế là điều tất yếu. Việt Nam cũng đã có những bước phát triển rất đáng nói nhờ vào việc giao thương, hợp tác Quốc tế; tuy nhiên để nói đến phát triển bền vững thì chỉ mới gần đây, việc hợp tác Quốc tế mới thực sự rõ ràng mang lại nhiều lợi ích cho việc này. Các chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư từ các tổ chức Quốc tế, công ty đa Quốc gia… nhằm vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, môi trường… là rất đáng ghi nhận. Nhờ sự mở cửa và các chính sách phù hợp, thuận lợi này mà các nước khác đã thâm nhập được thị trường Việt Nam để cùng nhau hợp tác phát triển. Các dự án điện gió, điện Mặt Trời đang phát triển ồ ạt gần đây là những tín hiệu đáng mừng bởi lượng “điện sạch” từ các dạng năng lượng tái tạo này sẽ đẩy lùi các nguồn điện hóa thạch gây ô nhiễm và phá hủy môi trường, tất nhiên đi kèm với đó cũng có nhiều mặt trái nhưng hy vọng sẽ có những giải pháp để khắc phục. Bên cạnh đó, việc tham gia thị trường các-bon Quốc tế cũng là một bước đi đúng đắn của Nhà nước ta bởi nước ta có một nguồn tài nguyên rất đa dạng và phong phú. Những lợi thế đó nếu không có sự hợp tác Quốc tế thì e rằng Việt Nam cũng không thể tận dụng tối đa được nguồn tài nguyên thiên nhiên này khi mà công nghệ của chúng ta quá lạc hậu, nguồn vốn không đủ mạnh và nhân lực ở trình độ thấp so với các nước phát triển.

Hy vọng trong tương lai sắp tới, Nhà nước sẽ có thêm nhiều chính sách và đường lối hợp lý để có thể bước đi thực sự vững chắc trên con đường phát triển bền vững đầy cam go và thử thách này.

Sống Tỉnh Thức

Để lại một bình luận