Tình hình tiêu thụ và lãng phí tài nguyên nước trên thế giới

Nước vừa là một nguồn tài nguyên thiết yếu đối với con người vừa là nguồn tài nguyên đặc biệt, sự phân  bố của nó không hề tương ứng với những nhu cầu đang ngày càng tăng của con người. Trong tổng lượng nước của toàn thế giới, có tới 97,5% là nước mặn, và trong số 2,5% nước ngọt có thể sử dụng được, có tới 68,5% tồn tại dưới dạng băng ở hai vùng cực và tuyết trên những đỉnh núi cao. Nước ngọt có thể sử dụng chỉ chiếm 1% tổng lượng nước toàn cầu. Về mặt địa lý, sự phân bố của nước là không đồng đều, 15% lượng nước ngọt toàn cầu  được giữ tại khu vực Amazon. Ngay trong khu vực Địa Trung Hải, các nước giàu về tài nguyên nước (Pháp, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư cũ) chiếm tới 2/3 lượng nước của toàn khu vực. Tình trạng này dẫn tới sự phân hóa những nước giàu và nghèo tính theo tỷ lệ tài nguyên nước trên đầu người: dao động từ dưới 100 m³/năm đến 10.000 m³/năm. Dưới ngưỡng 1.000 m³/năm/người thì những căng thẳng bắt đầu xuất hiện và ngưỡng thiếu nước được xác định ở mức 500 m³/năm. Không những thế lượng nước lại có sự phân bố không đồng đều theo thời gian. Có một sự mất cân đối về lượng nước giữa mùa khô hạn và mùa mưa và giữa các năm.

Trong vòng một thế kỷ vừa qua, trong khi dân số toàn cầu tăng lên ba lần thì mức tiêu thụ nước đã tăng lên sáu lần, trong đó nông nghiệp tiêu thụ tới 75% lượng nước ngọt toàn cầu và nhu cầu tưới tiêu của nông nghiệp lại không ngừng tăng lên cùng với sự phát triển dân số. Ngay cả những nước có khí hậu ôn hòa như Pháp thì lượng nước dành cho nông nghiệp cũng chiếm tới 30% tổng nhu cầu. Tiêu thụ ở những thành phố lớn cũng không ngừng tăng lên. Ở đó có một hình thức tiêu thụ mới nhưng cũng vô cùng lớn: đó là ngành du lịch. Tính trung bình, một khách du lịch trong một khách sạn hạng sang tiêu thụ từ 500 đến 800 lít nước/ngày, gấp nhiều lần mức tiêu thụ của cư dân bản địa. Kèm theo là các dịch vụ giải trí và vệ sinh. Một sân golf hàng năm tiêu thụ khoảng 10.000 m³ nước cho 1 ha, tương đương với một diện tích trồng trọt trong nông nghiệp. Thêm vào đó, thủy điện và công nghiệp cũng là những hộ tiêu thụ nước với số lượng lớn, cũng đã mang lại những tác động xấu đến sinh thái và văn hóa – xã hội ở các khu vực nhà máy hoạt động.

Sự gia tăng nhu cầu sử dụng nước đã dẫn đến việc cạn kiệt nguồn nước và ô nhiễm môi trường nước. Theo thống kê của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) thì 85% lượng chất thải sản phẩm công nghiệp và sinh hoạt con người được đưa thẳng vào môi trường không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nước, và ngày càng trở nên trầm trọng cùng với quá trình hiện đại hóa.

Một nguy cơ lớn khác là sự lãng phí nước. Trên thế giới hiện nay, mức độ áp dụng các biện pháp hiện đại trong tưới tiêu là hết sức không đồng đều cho nên nhu cầu nước phục vụ cho nông nghiệp dao động trong một biên độ rất lớn từ 200 đến 2.000 m³/ha/năm và có tới 70% lượng nước dành cho nông nghiệp bị lãng phí. Ở những thành phố lớn, 50% lượng nước bị thất thoát dọc đường ống. Trong khi đó thì các đập dự trữ nước lại luôn bị thất thoát qua con đường bốc hơi. Ở Ai Cập, mỗi năm người ta mất 10 tỷ m³ nước ở đập Assouan, nghĩa là 12% lưu lượng nước của sông Nile. Tình hình càng trở nên trầm trọng hơn bởi việc quản lý tài nguyên nước đòi hỏi phải có những cơ quan quản lý chuyên trách, có tính chất liên vùng và liên quốc gia. Vậy mà hiện nay, đó lại chính là khâu còn có nhiều thiếu sót. Hơn thế nữa, một chính sách tiết kiệm nước bằng giá cả thông qua việc quy định một mức giá bao hàm tất cả mọi thứ chi phí về sử dụng nước vẫn còn chưa được phổ biến. Càng ngày, người ta càng nhận thấy rằng không thể có một giải pháp thực sự cho vấn đề nước nếu không có sự tham gia tài chính trực tiếp của các đối tượng sử dụng.

PGS.TS. Ngô Trọng Thuận – PGS.TS Vũ Văn Tuấn 

Để lại một bình luận