Khái niệm về “Tri thức ảo” và 8 mặt trái của kiến thức

Tri thức ảo và 8 mặt trái của kiến thức: Những khái niệm rất mới này là gì? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài viết rất cho tiết sau đây để tường mình khái niệm “tri thức ảo” nhé! 

“TRI THỨC ẢO” VÀ DUNG NẠP KIẾN THỨC

Hãy cẩn thận! Không phải tất cả nguồn kiến thức bạn có được là chính xác, đây cũng chính là mối nguy hiểm tiềm ẩn, nó có thể gây ra tranh cãi và thậm chí dẫn đến xung đột. Riêng về phần lý thuyết của kiến thức có thể hiểu nó như là một niềm tin, một khi bạn đã đặt niềm tin thì rất khó ai có thể làm “lung lay” cái niềm tin của bạn vào một vấn đề gì đó dựa trên một kiến thức mà đã mất công sức dung nạp từ trước. Vậy thì vấn đề đặt ra ở đây là cái kiến thức đó sai lầm thì có phải bạn chính là “nạn nhân” của nó?

“Tri thức ảo” là nghĩa bóng muốn ám chỉ cho các loại “thông tin kiến thức” thiếu độ tin cậy, thiếu tính logic, nó có thể dẫn đến những Niềm Tin “lệch lạc”, không có giá trị hoặc tệ hơn nữa thì nó có thể là một dạng “vũ khí” mà người ta hay dùng thuật ngữ “tẩy não” để mưu tính cho một mục đích gì đó, phải biết phân biệt và nên tránh xa các dạng kiến thức này vì nó rất nguy hiểm mà có khi phải trả giá bằng cái giá trị của chúng ta, bằng chính mạng sống của mình hoặc gây ảnh hưởng tiêu cực đến những người xung quanh một cách vô tình.

Nói một cách khác thì nếu bắt buộc để chọn lựa giữa việc “thiếu kiến thức” và “kiến thức sai lầm” thì thà rằng chúng ta không cần kiến thức chứ không chấp nhận đặt niềm tin vào những giá trị “hoang đường”.

Để nhận định về một loại kiến thức nào đó đòi hỏi chúng ta phải luôn tỉnh táo, luôn biết cách đặt ra các câu hỏi xung quanh bất cứ một vấn đề gì khi ta tiếp cận, ngay cả đối với kiến thức thì ta nên đặt ra các câu hỏi đại loại như “kiến thức này dùng để làm gì?”, “có phù hợp với mình không?”, “nó giúp ích gì cho mình?”.

Trong một số trường hợp thì có những người muốn bạn phải hiểu cái kiến thức nào đó thì câu hỏi có thể là “mục đích của kiến thức đó là gì?”… vì suy cho cùng bạn sẽ không muốn mất thời gian của mình vào những loại kiến thức vô bổ, những loại kiến thức mà ảnh hưởng của nó có khi là nguy hiểm hoặc tiêu cực cho đời sống của chúng ta. 

8 MẶT TRÁI CỦA KIẾN THỨC

Theo lẽ thường tình thì người ta chỉ sợ không có kiến thức chứ ít ai để ý đến việc có quá nhiều kiến thức cũng mang lại những mối bận tâm không nhỏ. Hầu hết các vấn đề đều có mặt trái của nó, Kiến Thức cũng không ngoại lệ.

Đối với một người có quá nhiều kiến thức thì khả năng quản lý hoặc sử dụng kiến thức của họ cũng bị ảnh hưởng ít nhiều, đôi khi dùng không đúng lúc và không đúng đối tượng cũng có thể tác động đến “cái nhìn” của những người xung quanh, gây bất lợi cho ta nếu không khéo léo. Sau đây là một số ý kiến mà chúng ta nên tham khảo; mặt khác, hiểu được các mặt trái của kiến thức chính là những kiến thức rất có ích.

1. Tự cao tự đại

Xem thường người khác. Ngay cả khi một người có nhiều kiến thức hay tỏ ra là mình biết hết mà đôi khi họ còn suy nghĩ hoặc cho rằng đối phương sẽ nói những gì, khả năng bị ngộ nhận rất cao. Điều này có khi khó có thể giấu được từ trong ánh mắt, lời nói hoặc thái độ.

2. Quá nguyên tắc

Càng biết nhiều thì chúng ta thường hay có xu hướng là lập ra rất nhiều nguyên tắc sống, ở một chừng mực nào đó nó rất có lợi nhưng nếu đưa tất cả thành những nguyên tắc “bất di bất dịch” thì chỉ làm cho cuộc sống trở nên gò bó và khó khăn, dẫn đến sự ức chế cho chính cá nhân và những mối quan hệ xung quanh.

3. Bi quan

Xu hướng bi quan sẽ xuất hiện khi chúng ta biết quá nhiều, chẳng hạn như khi ta biết ông già Noel là một nhân vật không có thật mà là do trí tưởng tượng của con người tạo ra thì có khi lại đánh mất đi những niềm vui mà ta đã từng trải qua từ thời thơ ấu với nó, đây chỉ là một ví dụ điển hình trong nhiều vấn đề.

4. Có tính ỷ lại

Nó tạo ra cho chúng ta có suy nghĩ là không ai có thể làm việc “ấy” tốt hơn ta, ảnh hưởng đến thời gian có thể bị lãng phí vì ôm đồm quá nhiều công việc, không biết đặt niềm tin vào người khác cũng là một thiệt thòi lớn cho bản thân. Cuối cùng là đánh mất đi sự khách quan khi giải quyết vấn đề, thay vào đó là sự chủ quan.

5. Tự cô lập

Tự cô lập là khuynh hướng của người “học rộng”, họ tự hạn chế mình trong vấn đề giao tế xã hội vì hay có suy nghĩ là chẳng ai hiểu mình. Theo một số nghiên cứu gần đây, trong vài trường hợp cho thấy rằng thiếu đi sự tương tác xã hội dễ dẫn đến phiền muộn và làm tăng nguy cơ mắc bệnh trầm cảm.

6. Quá chi tiết cặn kẽ

Hiểu biết quá nhiều dễ khiến con người suy tính rất cặn kẽ và nếu không quán xuyến được sẽ dễ dàng dẫn đến tình trạng “câu nệ tiểu tiết”, dẫn đến sự khó tính ảnh hưởng đến các mối quan hệ xung quanh. Chúng ta có thể khó khăn với chính mình nhưng hãy cố gắng dung hoà với người khác, còn gọi là bao dung.

7. Hạn chế tiếp thu kiến thức mới

Khi “chạm” đến kiến thức ở một tầm cao thì sẽ hiểu rằng cái kiến thức mình đang có chỉ là “hạt cát trên sa mạc”, có nhiều người ở kiến thức tầm trung thì không thấy được cái “sự bao quát” nên dễ bị ngộ nhận mình là “cao siêu” mà tự hạn chế trong việc tiếp thu kiến thức của người khác, giống như một “ly nước đầy thì không thể rót thêm vào”.

8. Bướng bỉnh, cố chấp

Dễ có suy nghĩ rằng kiến thức của mình là tuyệt đối nên khó có thể “quan sát được góc nhìn” của người khác, không biết đặt mình vào hoàn cảnh hay địa vị của người khác để nhìn nhận vấn đề. Có khi không sai nhưng cố chấp sẽ tạo ra những tranh chấp không đáng có và làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ.

Những vấn đề vừa nêu ở trên cho chúng ta cái nhìn khác hoặc cái nhìn tổng quan hơn về kiến thức. Có được kiến thức là điều không dễ nhưng vì có kiến thức mà ảnh hưởng đến cuộc sống do những thiếu sót từ việc thiếu am hiểu những mặt trái của nó là không đáng có.

Chúng ta nên hiểu và biết rằng cái “rộng” và cái “bao la” của “bể học” là vô cùng tận, hay phải nói là “kiến thức trong kiến thức của kiến thức” để từ đó mà giữ cho mình một thái độ khiêm tốn, hoà đồng với mọi người, mọi cấp…, tuy đó là một việc làm khó…

Minh Thiện

Để lại một bình luận