Con người không hiểu tự nhiên

Tự nhiên – liều thuốc vô giá để chữa lành

Gần đây tôi thường nghĩ, hẳn sẽ tới lúc các nhà khoa học, các chính trị gia, các nghệ sĩ, các triết gia, những người thuộc các trường phái tôn giáo và tất cả những ai làm việc trên đồng ruộng nên tụ hội lại đây, nhìn cho kỹ những thửa ruộng này¹ rồi trao đổi bàn luận cho ra nhẽ. Tôi nghĩ đây là điều phải xảy ra nếu người ta vượt lên trên được phạm vi chuyên môn của họ.

Các nhà khoa học nghĩ rằng họ có thể hiểu được tự nhiên. Đấy chỉ là lập trường của họ. Bởi niềm tin đó, họ bỏ công khảo sát tự nhiên và phải đưa nó vào sử dụng bằng được mới thôi. Nhưng tôi nghĩ việc hiểu được tự nhiên nằm ngoài tầm với của trí tuệ con người.

Tôi thường bảo những người trẻ sống trong những túp lều trên núi, những người đến đây để giúp một tay và để học hỏi về làm nông tự nhiên, rằng ai cũng có thể nhìn thấy cây cối ở trên núi. Ta có thể nhìn thấy màu xanh của những chiếc lá; ta có thể nhìn thấy cây lúa. Ta nghĩ ta biết màu lá xanh là gì. Tiếp xúc với thiên nhiên từ sáng sớm tới tối đêm, có lúc ta nghĩ rằng mình biết tự nhiên. Nhưng khi nghĩ rằng mình bắt đầu hiểu được tự nhiên, đấy chính là lúc ta có thể nắm chắc một điều rằng ta đang đi sai đường.

Tại sao hiểu được tự nhiên lại là điều bất khả? Thứ được nhìn nhận là tự nhiên cũng chỉ là ý tưởng về tự nhiên nảy ra trong tâm trí mỗi người mà thôi. Kẻ thấy được tự nhiên thực thụ là những đứa trẻ. Chúng nhìn mà không nghĩ suy, thẳng tuột và trong sáng. Thậm chí nếu chỉ gọi trên cây cối, ví dụ một cây quýt thuộc họ cam quýt, một cây thông thuộc họ thông thôi thì tự nhiên đã không còn được thấy đúng trong nguyên bản của nó nữa rồi.

Một đối tượng được nhìn tách biệt khỏi tổng thể thì không còn là thứ có thực nữa

Các chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau tập trung lại cùng nhau quan sát một nhánh lúa. Vị chuyên gia về bệnh côn trùng chỉ thấy được thiệt hại do côn trùng gây ra, còn vị chuyên gia về dinh dưỡng cây trồng thì chỉ suy xét về sức sống của cây. Đây là điều không thể tránh khỏi khi mà mọi thứ vẫn cứ như bây giờ.

Lấy một ví dụ, tôi đã bảo với một quý ông tới từ trạm nghiên cứu nọ khi ông ta đang khảo sát mối liên hệ giữa rầy xanh trên lúa với lũ nhện đang sinh sống trên những thửa ruộng của tôi rằng: “Giáo sư à, bởi ông đang nghiên cứu nhện nên chỉ quan tâm đến nhện, là một trong nhiều loại thiên địch của bọn rầy xanh. Năm nay nhện xuất hiện nhiều, nhưng năm ngoái lại là cóc. Năm trước nữa thì ếch chiếm ưu thế. Có vô số loài mà”.

Các nghiên cứu chuyên biệt không thể nào nắm bắt được vai trò của chỉ một loài săn mồi vào một thời điểm nhất định trong mối tương quan phức tạp giữa các loài côn trùng. Có những mùa số lượng rầy xanh thấp vì nhện có nhiều. Có khi trời mưa nhiều và bọn ếch xơi sạch nhện, hoặc những khi trời ít mưa thì cả rầy xanh lẫn ếch nhái chẳng thấy đâu.

Các biện pháp kiểm soát côn trùng mà làm ngơ mối quan hệ giữa chính các loài côn trùng với nhau thì thực sự vô dụng. Việc nghiên cứu trên loài nhện và rầy xanh cũng phải xem xét đến cả mối quan hệ giữa ếch và nhện. Đến lúc này thì sẽ cần đến một vị giáo sư chuyên về ếch nhái, các chuyên gia về nhện và rầy xanh, một vị khác về cây lúa và một chuyên gia khác nữa về điều tiết nước, tất cả sẽ phải tham gia vào.

Chưa kể, có tới bốn, năm loài nhện khác nhau trên ruộng. Tôi nhớ một vài năm trước đây, có ai đó lao vào nhà tôi vào một buổi sớm để hỏi xem tôi có phủ lưới tơ hay cái gì đó lên ruộng không. Tôi cũng không hình dung được ông ấy đang nói đến thứ gì, nên vội vã chạy ra ruộng xem sao.

Bấy giờ, chúng tôi mới thu hoạch lúa xong, và chỉ sau một đêm các gốc rạ lẫn đám cỏ thấp đã hoàn toàn bị tơ nhện, chẳng khác gì lụa, phủ đầy. Phấp phới và lóng lánh trong sương mù buổi sớm, trông thật là một cảnh kỳ thú.

Điều kỳ diệu là ở chỗ khi chuyện này xảy ra, mà phải rất lâu mới xảy ra một lần, nó chỉ kéo dài trong một hai ngày. Nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy mỗi phân vuông đều có vô số nhện. Trên ruộng, chúng dày tới mức khó mà thấy được khoảng trống giữa chúng. Trên một nghìn mét vuông đất hẳn phải có tới bao nhiêu là nghìn con, bao nhiêu là triệu con! Hai, ba ngày sau mới thăm thửa ruộng đó, ta sẽ thấy những sợi tơ nhện dài vài thước đã đứt ra và bay phấp phới trong gió cùng với năm hay sáu con nhện đang bám vào mỗi sợi. Hệt như khi túm bông bồ công anh hay đài chứa những hạt thông được thổi bay trong gió. Đám nhện con bám vào đầu những sợi tơ và được gió đưa lên trời.

Cảnh tượng đó là một màn trình diễn tuyệt diệu của thiên nhiên. Thấy điều này rồi ta mới hiểu rằng các nhà thơ và nghệ sĩ cũng sẽ phải tham dự vào.

Khi hoá chất được đưa vào một thửa ruộng, tất cả những thứ này sẽ bị huỷ hoại chỉ trong chớp mắt. Có lúc tôi đã nghĩ chẳng có gì sai trái với việc rải tro bếp lên ruộng cả². Kết quả thì sao? Hai, ba ngày sau cánh đồng hoàn toàn sạch bóng nhện. Tro bếp khiến các sợi tơ bị rã ra. Đã có hàng bao nhiêu nghìn chú nhện là nạn nhân của chỉ một nắm tro trông có vẻ như vô hại đó? Đưa vào sử dụng một loại thuốc trừ sâu không chỉ đơn thuần là chuyện tiêu diệt bọn rầy xanh lẫn những con thiên địch của chúng không thôi. Nhiều tiến trình thiết yếu khác của tự nhiên cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Vẫn chưa ai lý giải được hiện tượng kéo bầy lớn như thế của đám nhện, diễn ra trên những ruộng lúa mùa thu và như những nghệ sĩ ảo thuật biến mất chỉ sau một đêm. Chẳng ai biết chúng từ đâu tới, làm sao chúng sống sót qua mùa đông, hay khi biến mất thì chúng đi đâu.

Và vì thế việc sử dụng hoá chất không phải chỉ là vấn đề của riêng các nhà nghiên cứu côn trùng. Các triết gia, giới tôn giáo, nghệ sĩ lẫn các nhà thơ cũng phải giúp đưa ra quyết định liệu có nên cho phép dùng hoá chất trong nông nghiệp hay không, và đâu là hệ quả có thể xảy ra ngay cả khi chỉ sử dụng các loại phân bón hữu cơ.

Chúng tôi sẽ thu hoạch được khoảng 22 giạ³ lúa gạo và 22 giạ ngũ cốc mùa đông từ mỗi nghìn mét vuông đất này. Nếu thu hoạch lên tới 29 giạ, như thỉnh thoảng vẫn đạt được, có thể ta sẽ không tìm được nơi nào trên toàn quốc có sản lượng lớn hơn. Bởi một lẽ công nghệ tiên tiến chẳng góp phần gì trong cuộc trồng cấy nên sản lượng này nổi bật lên như là một sự trái ngược với các giả định của khoa học hiện đại. Bất cứ ai đến đây, thấy những mảnh ruộng này và chấp nhận những gì mà chúng chứng thực, sẽ cảm thấy mối nghi ngờ sâu sắc được đặt ra với câu hỏi liệu con người có hiểu tự nhiên hay không, và liệu rằng tự nhiên có thể hiểu được trong phạm vi những hiểu biết hạn chế của con người hay không.

Điều khôi hài là khoa học chỉ có tác dụng làm rõ thêm rằng tri thức của loài người mới nhỏ bé làm sao.

Masanobu Fukuoka

Chú giải:

1 – Thửa ruộng mà ông Fukuoka canh tác theo phương pháp thuận tự nhiên

2 – Ông Fukuoka làm phân mùn vi sinh từ tro đốt củi và các chất thải hữu cơ của gia đình. Ông sử dụng nó trong khu vườn nhỏ phục vụ cho bếp ăn nhà mình.

3 – Tương đương 6 tạ

Để lại một bình luận