Biết bao thế hệ Tăng Ni Phật tử, các bậc cao nhân thạc đức, thiện hữu tri thức các giới trong và ngoài nước lâu nay hết lòng cung kính ngưỡng mộ chấp bút khá nhiều loạt bài tán dương, ca tụng công hạnh, đạo nghiệp của đức trưởng lão Hòa thượng thượng Tuệ hạ Sỹ được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau về các phương diện văn hóa, nghệ thuật, thi ca, tư tưởng Phật học. Dẫu vậy, thiết nghĩ tất cả những ngôn từ bút mực đó có bày tỏ sự cao quý đến mức độ tột cùng nào đi chăng nữa thì cũng không thể nào chuyển tải hết được tấm lòng, sự hi hiến vô cùng tận của bậc thông tuệ uyên bác hiếm hoi như ngài cho đạo Phật Việt Nam. Người viết bài này cũng không ngoại lệ nhưng cũng tạm mượn đôi dòng mộc mạc chân phương với tấc dạ tri ân vô hạn kính dâng lên bậc tôn Sư vĩ đại của Phật giáo VN thời cận, hiện đại. Sự hiện thân, đóng góp, tấm gương sáng ngời của tinh thần Bi, Trí, Dũng ở ngài luôn là ngọn đuốc soi đường cho hàng đệ tử Phật trên lộ trình tu tập, phụng sự nhân sinh.
BI
Thương cho tiền đồ Phật pháp, sự tồn vong của Giáo hội truyền thừa từ chư Tổ bao đời nay và các thế hệ học Phật hậu lai mà ngày đêm ngài miệt mài trong sự trước tác, dịch thuật Thánh điển bất kể tuổi cao sức yếu, thân tứ đại mỏng manh khô gầy, bệnh tình nguy kịch. Không thụ hưởng sự an nhàn, tham vọng cho riêng bản thân, ngài tận tâm tận lực vun bồi lý tưởng giác ngộ giúp thế hệ Tăng Ni kế thừa tiếp nhận di sản bất tuyệt của nền giáo pháp vô giá.
Sinh ra và lớn lên trong các thời kỳ chiến tranh ý thức hệ, bom đạn, tâm thức con người dễ dàng trôi chảy theo vòng xoáy của nhịp cầu tranh chấp đố kỵ, thù hận, gieo rắc tai họa cho muôn người muôn loài. Nhưng phúc lạc cho nhân loại, dòng suối từ bi thanh lương mát mẻ từ nguồn Pháp Phật đã che chở, bảo bọc, nuôi dưỡng bao tâm hồn cao thượng, trong sáng, ý chí mãnh liệt, xuất trần để từ đó lần lượt xuất hiện các bậc cao Tăng thạc đức làm rường cột cho Phật giáo từ bao đời nay. Thừa hưởng tinh hoa lý tưởng giác ngộ giải thoát của đức Thế Tôn, trái tim ngài ôm trọn bầu trời Phật Pháp, tấm thân mỏng manh ốm yếu đó chứa đựng tình thương vô bờ bến đối với Tăng tín đồ Phật giáo nói riêng, thế giới loài người nói chung. Trong thư gửi các tăng sinh Thừa Thiên-Huế, ngài bày tỏ: “Thế hệ của thầy, những thanh niên trang lứa được nuôi dưỡng để dựa vào chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ, được giáo dục để biết hận thù giai cấp. Nhưng may thay, dòng suối Từ vẫn âm thầm tuôn chảy, để xoa dịu những đau thương mất mát; để hàn gắn những đổ vỡ điêu tàn của dân tộc.”
TRÍ
Tuy không tham dự theo học các chương trình đào tạo trường lớp chính quy nhưng với khả năng tự học, túc duyên sẵn có, ngài tinh thông hầu hết các bộ môn ở học đường và thông thạo nhiều sinh, cổ ngữ. Chưa từng rời quê hương Việt Nam, ấy vậy mà các nền triết học, sử học, đạo học đông-tây kim-cổ, những điển tích rất xưa, những truyền thống của các dân tộc trên thế giới ngài đều thấu hiểu tường tận, thấy biết sâu xa từng vấn đề lớn nhỏ dường như ít ai nghĩ đến. Các chủ nghĩa học thuyết, văn hóa, văn minh, học thuật cho dẫu hay đến mấy đi nữa nhưng vẫn còn quẩn quanh trong thế giới hiện tượng phân biệt, ngã-pháp nhị chấp ràng buộc, vẫn trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử khổ đau nên hành trình cuộc đời của ngài được chọn lựa là Phật Pháp và từng hơi thở của ngài gắn liền, trải dài theo từng trang Kinh trong Tam Tạng Thánh điển. Có lần ngài kể về một du học sinh Việt Nam đi học Nhật bản, là con trai của người bạn thân. Cậu sinh viên này đang theo học ngành tiến sĩ điện tử, sự nghiệp tương lai rạng rỡ trước mắt nhưng cậu này đã chuyển sang học Phật học khi được khám phá, tiếp cận nền giáo lý giác ngộ uyên thâm tại một thư viện nơi cậu đang học.
Do vậy, bằng mọi phương tiện trong quá trình hoằng hóa, lúc nào và bao giờ ngài cũng gửi gắm đến các thế hệ học Phật di sản Tuệ giác vô giá của tạng Pháp Phật như tinh thần Kinh Bát Đại Nhân Giác: “An bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp”.
DŨNG
Vì danh vọng, quyền tư lợi, tư hữu mà nhiều cá nhân, gia đình, đoàn thể, xã hội, đảng phái, quốc gia, nhân danh tổ chức tôn giáo…, con người có thể đánh đổi những giá trị, phẩm chất tinh thần cao quý từ bên trong mình rồi trở thành nô lệ, nạn nhân, tội đồ, tội lỗi, yếu kém, thấp hèn. Chư vị Thiền sư các thời cực thịnh của Phật giáo Lý, Trần đã từ khước những quyền lợi, bổng lộc sau những đóng góp to lớn cho đại cuộc để quay về nơi chốn tĩnh mịch mà tu hành, gìn giữ tố chất trượng phu cho đời sau noi theo. Cũng trong bức thư trên, ngài viết: “Nhưng sống hay chết, vinh hay nhục, không làm dao động tâm tư của những ai biết sống và chết xứng đáng với phẩm cách của con người, không hổ thẹn với phẩm hạnh cao quý của bậc xuất gia.”
Những khó khăn chướng ngại của hoàn cảnh bên ngoài còn có cách để giải quyết trong khi sự vô minh tham chấp bên trong mới thật sự là vấn đề nan giải của tất cả những ai là con người hiện hữu trên hành tinh này. Đối mặt với những bức ngặt khủng hoảng đen tối nhất của thể chế cường quyền mà ngài
không khuất phục trước những bất công đe dọa; cái chết không còn có nghĩa lý gì đối với ngài thì những thứ còn lại là danh xưng huyễn mộng, là tốt xấu khen chê… làm sao ngự trị, cám dỗ được ngài. Tinh thần vô úy uy dũng đó đã nuôi dưỡng chí nguyện tu hành, tiếp nối Tổ nghiệp, ý chí lợi tha mãnh liệt nơi ngài mà đa phần ai cũng sẵn sàng bước sang thuyền bên kia để được thuận buồm xuôi gió, sung túc mọi mặt.
Phật Pháp bao la rộng mở, duy có những người hữu duyên hữu phước mới bước vào con đường tu tập. Sự hiện thân quý giá sáng ngời giữa cõi đời như Hòa Thượng Tuệ Sỹ đâu phải ai cũng đồng lòng tôn xưng, trân kính, quy hướng; chỉ có những tâm hồn cao thượng, những hành giả sống với giá trị biết ơn mới cảm nhận được sự mầu nhiệm đó. Điều này hiển nhiên là vậy trong thế giới tương quan tục đế này. Đệ tử Phật muốn đền báo ân Phật thì phải đem lời Phật dạy áp dụng vào đời sống tu tập để lợi mình lợi người. Ai là người mang ơn, thọ ơn, quý mến ngài Hòa thượng Tuệ Sỹ thì nên nỗ lực hoằng truyền Chánh Pháp, phát huy lan tỏa những tác phẩm, dịch phẩm của ngài và học theo hạnh Đại Bi, Đại Trí, Đại Dũng từ ngài hầu góp phần cho ngôi nhà Phật Pháp được trường cữu, hưng long, sáng mãi ở thế gian.
Tu Viện Bồ Đề, ngày 11 tháng 10/2023
Thích Thánh Trí