Chất thải của ngành này – nguyên liệu của ngành khác

Buổi trò chuyện bên bàn ăn ở tiệm Café des Deux Magots rất sôi nổi. De Broglie nhận xét về khối lượng chất thải sinh học lớn không thể tưởng tượng trong công nghiệp chế biến cà chua và lưu ý: Toàn bộ chất thải đó có thể trở thành nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm và chất chống nắng.

Vị trí nhà máy chế biến cà chua được lựa chọn cẩn thận nhằm giảm thiểu khoảng cách từ đó tới nông trại, để khi cà mới hái vừa được vận chuyển đến, người ta có thể làm bột nhão cà chua ngay. Unilever, công ty chế biến cà chua lớn nhất thế giới, đạt mức trung bình 1,65 triệu tấn mỗi năm. Với khối lượng đó, nhà máy của Unilever tạo ra một dòng thải lớn gồm tất cả những gì không được chế biến và đóng gói. Hàng năm, nó thải ra tới 30.000 tấn vỏ cà chua. Nếu như Unilever có thêm hoạt động sản xuất thuốc chống nắng với hoạt chất lycopen lấy từ vỏ cà chua thì chất chống tia tử ngoại dựa vào titan sẽ xuống giá ngay và trở thành lỗi thời. Vỏ cà chua là một nguyên liệu tái tạo miễn phí; hơn nữa, nếu sử dụng nó, nhà máy sản xuất bột nhão cà chua sẽ tiết kiệm được chi phí loại bỏ chất thải.

So với cà phê, đúng là lượng chất thải từ cà chua rất ít. Tuy vậy, phải dùng đến hàng ngàn mét khối nước để đẩy bã cà qua hệ thống xử lý nước thải. Và khoảng ba phần trăm lượng chất thải rắn còn lại trở thành rác. Nó bị bỏ qua vì những nhà quản lý dây chuyền cung cấp và chính sách doanh nghiệp đều tập trung vào mối lợi ngắn hạn, không tìm kiếm giá trị nào từ chất thải. Nhưng đối với chúng ta, số phần trăm nhỏ ấy thật đáng chú ý. Trong doanh nghiệp có thành ngữ: một penny tiết kiệm được ở mỗi sản phẩm là một triệu nhiều hơn ở tổng số. Tuy nhiên, logic ấy không được áp dụng chừng nào một đầu ra còn bị xem là chất thải. Chính vì vậy mà các hệ sinh thái là nguồn cảm hứng thật sự vì thế giới tự nhiên tìm thấy giá trị ở “chất thải”.

Điều mà các hệ thống tự nhiên dạy chúng ta là không thể đạt tới hiệu quả nguyên liệu chỉ bằng một quá trình duy nhất. Lúc nào cũng có nhiều nhiệm vụ phải hoàn thành, như trường hợp vỏ cà chua minh họa xuất sắc. Vỏ cà tách ra khỏi dòng chất thải không những là nguồn nguyên liệu tốt để sản xuất những chất chống oxy hóa và tia tử ngoại, mà còn để tạo màu đỏ thực phẩm tự nhiên và an toàn cho nhiều sản phẩm đông lạnh từ cá hồi đóng gói, dâu tây cho đến kem. Do đó, nếu cà chua là ngành kinh doanh cốt lõi thì những công ty con trong các lĩnh vực sức khỏe (chống UV), chăm sóc thân thể (mỹ phẩm), đánh bắt cá (thực phẩm có chất đạm) và kem (đồ ăn tráng miệng) sẽ bổ sung cho nó trong một mô hình thác nhiều tầng. Các oxit sắt và phẩm màu nhân tạo có nguồn gốc từ dầu lửa và khoáng sản kim loại chỉ cung cấp một sản phẩm và một dòng thải vô trách nhiệm. Lycopen là một phần của nhóm nguyên vật liệu hữu dụng có thể được tách ra khỏi dòng thải sinh học. Son đỏ làm bằng vỏ cà chua có lẽ sẽ có một nét đặc sắc riêng. Thật vậy, nếu phụ nữ biết những chất nào được sử dụng để làm son hiện nay, thì sẽ không thể cưỡng lại được loại son từ vỏ cà chua.

Một kế hoạch kinh doanh tích cực sẽ bao gồm các việc sau: phát triển những công nghệ chiết xuất và chế biến lycopen; biết rõ tiềm năng chiết xuất lycopen từ vỏ cà; đánh giá khối lượng và giá sản phẩm chống UV được tiêu thụ ở thị trường; và xác định khối lượng và giá phẩm đỏ mà ngành công nghiệp thực phẩm sẽ mua. Một nhà máy sản xuất lycopen từ vỏ cà chua xây dựng gần nhà máy chế biến cà có thể bán lycopen với giá cạnh tranh cho ngành sản xuất màu an toàn thực phẩm và thuốc chống tia cực tím. Chuyển đổi trong việc quản lý chất thải nhằm thúc đẩy đổi mới sẽ tạo nhiều việc làm ở địa phương, cung cấp sản phẩm chất lượng cao với giá hạ, thay thế những hoạt động doanh nghiệp không bền vững và giúp bảo đảm sức khỏe, giảm phơi nhiễm nguy hại. Một mô hình kinh doanh vừa thân thiện với môi trường vừa bảo đảm về mặt tài chính như thế có thể thành công trên nhiều phương diện.

Phân tích chi phí cho thấy nếu chỉ chiết xuất lycopen thôi từ trái cà chua thì sẽ rất tốn kém. Kết quả ấy đúng nếu như chúng ta bỏ phí phần cà còn lại, mặc dù chính điều vô lý này đã được “hợp lý hóa” bởi ngành công nghiệp hiện nay. Với một phân tích kinh tế trong phạm vi hẹp như trên, phẩm màu và chất phòng ngừa UV sản xuất từ trái cà chua theo đề nghị của Parker không khi nào có thể cạnh tranh được với oxit titan trong nước thơm chống nắng. Nhưng nếu nguyên liệu cho cả hai là vỏ cà chua thì đó là kinh doanh. Tạo ra hai sản phẩm (chất chống tia tử ngoại và phẩm màu) có giá trị gia tăng từ một dòng thải là một việc tốt hơn nhiều. Logic ấy không được giảng dạy trong các trường đại học kinh tế giỏi nhất thế giới, những nơi mà chiến lược kinh doanh – năng lực cốt lõi được bênh vực bởi một phân tích dòng tiền không xét hết mọi khía cạnh. Dòng thu nhập kép từ nguyên vật liệu miễn phí dẫn đến một dòng tiền tổng hợp lớn mà riêng việc chế biến cà chua chẳng khi nào đạt tới được.

Ngoài vỏ cà ra, mô hình kinh doanh tích cực còn có thể sử dụng cả hạt thải ra từ quá trình chế biến cà chua. Hạt cà từ những máy chế biến bột nhão với khối lượng lớn thường bị vứt vào bãi rác hoặc bán rẻ cho người chăn nuôi bò. Giá trị dinh dưỡng của hạt cà rất thấp đối với bò − nó chỉ là một chất độn, chớ không phải là thức ăn gia súc. Tuy nhiên, hạt cà lại chứa nhiều chất vi lượng hỗ trợ sức khỏe và những axit béo không bão hòa làm da mềm mại. Như vậy, nếu nguyên vật liệu được sử dụng phù hợp hơn với thị trường, hạt cà chua sẽ được chế biến thành những sản phẩm dưỡng da hay thức ăn bổ dưỡng cho chúng ta.

Nhu cầu thế giới về những sản phẩm chế biến từ cà chua − cà nấu chín, lát mỏng và thái hạt lựu, đóng hộp, cho vào chai, với đủ mọi mùi vị quốc tế – cũng có thể đáp ứng nhu cầu về thuốc chống nắng, mỹ phẩm và phẩm màu bằng cách sử dụng vỏ và hạt cà chua. Việc lưu chuyển nguyên vật liệu như thế đem lại nhiều cơ hội độc đáo để phát triển những thị trường đầy hứa hẹn, sáng tạo những ứng dụng thành công và đạt tới những nhà máy chạy hết công suất. Nếu những cơ sở sản xuất các hàng tiêu dùng nói trên được đặt gần trung tâm chế biến cà chua ban đầu thì chi phí vận chuyển sẽ rất nhỏ. Cụm công nghiệp này sẽ đóng góp vào dòng tiền mặt, giảm chi phí và tạo công ăn việc làm.

GS Gunter Paulli

Để lại một bình luận