Những khó khăn trong phát triển làng sinh thái

Khó khăn trong việc phát triển một cộng đồng sống hài hòa với nhau và với tự nhiên là có thật, song có thể vượt qua

Bài viết của Robert Gilman đăng trên tạp chí Living Together (1991)

Người dịch: Hạnh Liên

 

Đối với loài người vào cuối thế kỷ 20, không điều gì hấp dẫn hơn, nhưng cũng khó nắm bắt hơn là viễn cảnh được chung sống hài hòa với tự nhiên và với nhau. Khả năng hiện thực hóa giấc mơ này là gì và đâu là những hành động mang tính đòn bẩy cao nhất giúp chúng ta hướng tới một tương lai như vậy? Câu hỏi này có thể được giải mã bằng cách xem xét tình trạng hiện tại và những triển vọng có một cách tiếp cận mạnh mẽ nhất để đạt ước mơ sống hài hòa này: làng sinh thái. Chúng tôi cũng sẽ xem xét khái niệm rộng hơn về cộng đồng bền vững và ý tưởng về cộng đồng nói chung.

Tại thời điểm này, không có một khái niệm thống nhất chung nào về làng sinh thái. Vì thế, chúng tôi sẽ định nghĩa làng sinh thái là một khu định cư ở:

  • Quy mô con người
  • Sự đầy đủ tính năng
  • Các hoạt động của con người được lồng ghép vô hại với thế giới tự nhiên
  • Cách hỗ trợ sự phát triển lành mạnh của con người và có thể tiếp tục thành công trong tương lai vô thời hạn.

“Quy mô con người” đề cập tới quy mô mà con người có thể biết và được biết tới bởi những người khác trong cộng đồng, và là nơi mà mỗi thành viên cộng đồng cảm thấy mình có thể ảnh hưởng tới hướng phát triển của cộng đồng. Có bằng chứng, cả trong xã hội công nghiệp hiện đại và trong các nền văn hóa khác, xác thực là giới hạn tối đa cho một nhóm như vậy khoảng 500 người. Trong một vài tình huống ổn định và độc lập, con số này có thể cao hơn, lên tới 1000, song trong những tình huống khác, đặc biệt ở xã hội công nghiệp hiện đại, con số này thường thấp hơn, có khi ít hơn 100.

“Sự đầy đủ tính năng”  là một nơi định cư có tất cả những chức năng chính của cuộc sống bình thường: chỗ ở, thực phẩm, khu sản xuất, giải trí, đời sống xã hội và thương mại… được bố trí rõ ràng và cân đối. Phần lớn khu định cư hiện tại trong thế giới công nghiệp hóa: thành thị, ngoại ô và nông thôn, được chia cắt hoàn toàn bởi chức năng như khu dân cư, khu mua sắm, khu công nghiệp… Những khu vực này thường quá lớn so với quy mô con người, ngay cả chỉ trong một chức năng. Ngược lại, làng sinh thái là mô hình thu nhỏ của toàn bộ xã hội có thể hiểu được.

Điều này không có nghĩa là làng sinh thái phải hoàn toàn tự cung tự cấp hoặc tách biệt khỏi cộng đồng xung quanh. Lý tưởng nhất là làng sinh thái có nhiều việc làm trong làng để những người có việc làm sống trong làng sinh thái, hoặc một số cư dân sẽ ra ngoài làng làm việc và công việc trong làng sẽ do người ở ngoài làng đảm nhận.

Bên cạnh đó, có nhiều dịch vụ chuyên biệt không thể đặt ở làng sinh thái như bệnh viện, sân bay… Vì thế, với sự hợp tác giữa các làng, bất kỳ tổ chức lớn nào cũng có thể được điều hành thành công bởi mạng lưới, cho phép một xã hội hiện đại với đầy đủ chức năng có thể bao gồm các đơn vị làng sinh thái.

“Các hoạt động của con người được lồng ghép vô hại với thế giới tự nhiên” là ý tưởng lồng ghép “sinh thái” vào các “làng sinh thái”. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của nguyên tắc này là tư duy bình đẳng giữa con người và các dạng sống khác. Con người không cố gắng thống trị thiên nhiên và tìm vị trí của mình trong đó. Một trong khía cạnh quan trọng khác là việc sử dụng tài nguyên theo cách tuần hoàn, chứ không tuyến tính (đào lên, sử dụng một lần, vứt bỏ mãi mãi) đã trở thành đặc tính của xã hội công nghiệp. Các làng sinh thái sử dụng nguồn nguyên liệu tái tạo (mặt trời, gió…) thay vì nguyên liệu hóa thạch; ủ phân các vật liệu hữu cơ để trả lại cho đất thay vì đưa chúng tới các bãi chôn lấp, lò đốt hoặc nhà máy xử lý chất thải; tái sử dụng rác thải nhiều nhất có thể và tránh sử dụng các chất độc hại.

“Theo cách hỗ trợ sự phát triển khỏe mạnh của con người…” là nguyên tắc thừa nhận các làng sinh thái xét cho cùng vẫn là các cộng đồng người và nếu không có sức khỏe con người làm cốt lõi thì những cộng đồng này khó mà thành công được. Phát triển con người khỏe mạnh là gì? Một định nghĩa đầy đủ cần cả một cuốn sách. Ở đây, tôi chỉ thấy sự phát triển này liên quan tới tất cả các khía cạnh của cuộc sống con người: thể chất, tình cảm, tinh thần và tâm linh. Sự phát triển khỏe mạnh không những thể hiện trong cuộc sống của từng cá nhân mà trong cuộc sống của cả cộng đồng.

và có thể tiếp tục thành công trong tương lai vô thời hạn là nguyên tắc bền vững buộc những người dân làng sinh thái phải trung thực. Thiếu tính trung thực, về ngắn hạn có thể dễ dàng tạo ra các cộng đồng người có vẻ hòa nhập với thiên nhiên với đầy đủ tính năng, nhưng trên thực tế là lối sống không dễ nhìn thấy bằng tích lũy vốn ở những mảng khác của xã hội, hoặc phụ thuộc vào những hoạt động không bền vững ở nơi khác, hoặc không bao gồm những khía cạnh chính của cuộc sống (tuổi thơ và tuổi già). Nguyên tắc bền vững mang tới cam kết sâu sắc về công bằng và không bóc lột, hướng tới các khu vực khác của thế giới, con người và phi con người, và tất cả cùng hướng tới một cuộc sống trong tương lai.

Cộng đồng bền vững

Cộng đồng bền vững là thuật ngữ chung chung hơn bao gồm các làng sinh thái, các cụm, các mạng lưới làng sinh thái và các cộng đồng phi địa lý (như doanh nghiệp) có quy mô con người, đa dạng và hòa nhập hài hòa với thế giới tự nhiên. Theo nghĩa rộng này, làng sinh thái là một nơi hoàn toàn khác, có thể là một làng ở nông thôn hoặc một khu đô thị/ ngoại ô. Một thành phố không thể là một làng sinh thái, nhưng thành phố được tạo ra từ các làng sinh thái có thể là một cộng đồng bền vững.

 

HƯỚNG VỀ PHÍA TRƯỚC, KHÔNG QUAY LẠI

Nếu làng sinh thái là một nơi lý tưởng như vậy, tại sao chúng ta không sống ở đó?

Một câu trả lời là phần lớn mọi người đã từng sống ở những “làng sinh thái”, tức là mô hình tốt nhất cho một làng sinh thái là làng nông nghiệp truyền thống, và để lấy lại sự hòa hợp với thiên nhiên và con người, tất cả những gì chúng ta cần làm là quay lại lối sống truyền thống đó. Tôi không đồng ý với câu trả lời này.

Mặc dù, đúng là có nhiều điều cần học hỏi từ những ngôi làng này, nhưng ngày nay có rất ít người, kể cả những người đang sống ở đó mô tả ngôi làng có đầy đủ tính năng hỗ trợ cho sự phát triển khỏe mạnh của con người. Công việc nặng nhọc, tuổi thọ trung bình ngắn, cơ hội phát triển bản thân và giáo dục ít (hầu như không có với phụ nữ), hạn chế sự đa dạng trong sinh kế.

Ngoài ra, sự hài hòa giữa những ngôi làng này với môi trường tự nhiên thường là do mật độ dân số thấp (một điều xa xỉ mà chúng ta không còn nữa). Dân làng trên thế giới sử dụng 3 loại hình nông nghiệp chính: làm nương, làm rẫy và sử dụng nước mưa và tưới tiêu. Trong đó, đốt nương làm rẫy ảnh hưởng môi trường nhất và yêu cầu mật độ dân số thấp. Làm thủy lợi hỗ trợ mật độ dân số đông nhất nhưng cũng tổn hại tới môi trường như sự sụp đổ các nền văn minh dựa trên thủy lợi đã chứng minh.

Và cuối cùng, làng truyền thống không phải là nơi con người sống hài hòa với nhau. Theo quan điểm hiện đại, cuộc sống làng quê thường mang tính “gia trưởng” vô cùng đau đớn. Bên ngoài gia đình tồn tại sự thù địch và ngờ vực trong làng, giữa các làng với nhau và với thế giới bên ngoài. Ngược lại, làng sinh thái đích thực là một kết quả rõ ràng của thời kỳ “hậu công nghiệp”, thậm chí có thể “hậu nông nghiệp”. Con người rút ra bài học từ tất cả kinh nghiệm sống của mình, nhưng họ không quay trở lại thời kỳ hay bất kỳ lối sống nào trước đây.

Làng sinh thái sinh ra từ nhu cầu và cơ hội do các yếu tố sau mang lại:

  • Những hạn chế mới về sinh thái – vốn sinh ra bởi dân số và năng lực công nghệ cao.
  • Những kỹ thuật và công nghệ mới – nảy sinh từ hiểu biết tốt hơn về hệ sinh thái, đa dạng kênh thông tin, công nghệ sử dụng tài nguyên tái tạo và các hình thức tổ chức con người mới.
  • Trình độ ý thức và nhận thức mới – biểu tượng bằng bức tranh Trái đất từ không gian và tất cả phương tiện cho thấy ý thức toàn cầu và hiểu biết về lịch sử hàng tỷ năm của sự sống trên một hành tinh nhỏ trong không gian rộng lớn của vũ trụ.

Mặc dù ngày càng nhiều bằng chứng rõ ràng về sự thiếu bền vững, xã hội công nghiệp có lịch sử hàng trăm năm tạo đà phát triển thể chế và vốn. Với cơ sở hạ tầng khổng lồ và khuôn mẫu xã hội đã có cho đến nay, việc tiếp tục sống theo cách thức không bền vững sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc đi tiên phong trong các cộng đồng bền vững.

Vì vậy, câu trả lời cho lý do tại sao chúng ta chưa sống trong các làng sinh thái khá đơn giản: nhu cầu và cơ hội này quá mới, xã hội chưa có thời gian để điều chỉnh. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của một kỷ nguyên mới, chúng ta có thể mong đợi sự phát triển kỹ thuật và nhận thức cho kỷ nguyên này vẫn ở phía trước.

NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA LÀNG SINH THÁI

Mặc dù đi tiên phong trong các cộng đồng bền vững khó khăn hơn là sống trong một tình thế “”tiến thoái lưỡng nan””, song nhiều nhóm đã hành động trong những thập kỷ qua. Để trân trọng những thách thức mà những người tiên phong đã gặp phải, chúng ta cùng xem xét những khó khăn mà tầm nhìn làng sinh thái phải đối mặt.

Khó khăn về hệ thống sinh học

Để thực hiện lý tưởng các hoạt động của làng sinh thái hòa nhập vô hại với thế giới tự nhiên, làng sinh thái phải tìm ra những cách thân thiện với môi trường nhằm:

  • Bảo tồn môi trường sống tự nhiên trên đất đai của làng
  • Sản xuất thực phẩm, gỗ và các tài nguyên sinh học khác tại chỗ
  • Làm cho chất độc hại ban đầu ở làng thành vô hại
  • Tái chế tất cả chất thải rắn từ làng
  • Xử lý chất thải lỏng từ làng
  • Tránh các tác động xấu đến môi trường tại chỗ từ khâu sản xuất tới phân phối bất kỳ sản phẩm nào
  • Tránh các tác động xấu tới môi trường từ việc sử dụng cho tới việc loại bỏ bất kỳ sản phẩm nào
Khó khăn về môi trường xây dựng

Để thực hiện lý tưởng các hoạt động của làng sinh thái hòa nhập vô hại với thế giới tự nhiên, làng sinh thái phải: 

  • Xây dựng bằng vật liệu thân thiện với môi trường
  • Sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo
  • Xử lý chất thải rắn, lỏng và khí từ các tòa nhà theo cách thân thiện với môi trường
  • Có nhu cầu giao thông cơ giới tối thiểu
  • Xây dựng theo cách tác động tối thiểu đến đất đai và sinh thái địa phương

Để thực hiện lý tưởng làng sinh thái hỗ trợ con người phát triển khỏe mạnh, các công trình trong làng phải:

  • Có sự cân bằng giữa không gian công cộng và riêng tư
  • Khuyến khích sự tương tác cộng đồng
  • Hỗ trợ đa dạng các hoạt động
Khó khăn của hệ thống kinh tế

Để thực hiện lý tưởng làng sinh thái hỗ trợ con người phát triển khỏe mạnh và có đầy đủ tính năng, làng sinh thái cần có các hoạt động kinh tế tương đối.

Để thực hiện lý tưởng công bằng và không bóc lột vốn là một nguyên tắc đảm bảo tính bền vững, các thành viên trong làng sinh thái phải có những hoạt động kinh tế không phụ thuộc vào sự bóc lột từ người khác, nơi khác và tương lai. Hàm ý của mục tiêu này không hoàn toàn dễ hiểu, song chúng ta có thể xác định một số câu hỏi mà làng sinh thái phải đối mặt liên quan tới hoạt động kinh tế:

  • Hoạt động kinh tế bền vững là gì? Điều gì duy trì thành viên trong cộng đồng và điều gì bền vững về sinh thái?
  • Những phần nào của cộng đồng nên được tổ chức chung và những phần nào nên thuộc sở hữu riêng?
  • Cụ thể hơn, quyền sở hữu đất và công trình phải được xử lý thế nào?
  • Làm thế nào hiệu quả cả kinh tế và sinh thái trong khi giảm chi phí và tác động tới môi trường?
  • Các hoạt động kinh doanh phù hợp cho làng sinh thái là gì?
  • Những giải pháp thay thế và/hoặc bổ sung hữu ích nào cho nền kinh tế tiền tệ để tạo điều kiện trao đổi trong và giữa các làng sinh thái không?
Khó khăn về quản trị

Cũng như kinh tế học, các lý tưởng về công bằng và không khái thác chỉ cho các làng sinh thái một hướng đi chung, nhưng không hướng dẫn rõ ràng cách đưa các lý tưởng này vào thực tế. Tuy nhiên, chúng ta có thể xác định một số câu hỏi có thể xảy ra liên quan tới quản trị làng sinh thái:

  • Các quyết định sẽ được đưa ra bằng cách nào? Phương pháp nào sẽ được sử dụng cho loại quyết định nào?
  • Xung đột sẽ được giải quyết như thế nào?
  • Các quyết định của cộng đồng sẽ được thực thi như thế nào?
  • Người lãnh đạo sẽ có vai trò và kỳ vọng gì?
  • Làng sinh thái sẽ có mối quan hệ như thế nào với chính quyền xung quanh?
Khó khăn về “keo dính”

Để đối phó với tất cả những khó khăn này, các thành viên của làng sinh thái cần một thứ gì đó gắn kết họ lại với nhau, giá trị và tầm nhìn ban đầu có thể cung cấp “keo dính”. Việc duy trì và phát triển chất keo này đặt ra một số câu hỏi:

  • Sự tác động qua lại phù hợp cho sự đoàn kết và đa dạng là gì?
  • Những giá trị, hành vi và thông lệ chung nào được mong đợi trong nhóm?
  • Tầm nhìn chung của nhóm (nếu có) là gì?
  • Nhóm sẽ khám phá, phát triển và thực hiện tầm nhìn đó như thế nào?
  • Nhóm sẽ gắn bó với nhau như thế nào về mặt cá nhân?
  • Làm thế nào sự gần gũi được phát triển tốt nhất?
  • Nhóm sẽ quan hệ như thế nào với những người khác bên ngoài?
Khó khăn của toàn bộ hệ thống

Khó khăn của toàn bộ hệ thống thường sâu hơn và ít được nhận thấy. Có lẽ thách thức lớn nhất của bất kỳ ai cố gắng tạo ra một ngôi làng sinh thái là nó đòi hỏi sự thay đổi trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Tất cả những người sáng lập cộng đồng thường cố gắng hoặc cảm thấy bị buộc phải làm việc đồng thời trên tất cả các khía cạnh khác nhau của những thay đổi này. Hầu hết những thay đổi này đều mất thời gian và tiền bạc hơn dự kiến. Ngoài ra, mỗi lĩnh vực thay đổi tương tác với các lĩnh vực khác theo cách không thể dự đoán được. Trong quá trình này, nguồn lực tài chính và tình cảm và mối quan hệ giữa các cá nhân có thể bị căng thẳng rất nhiều. Khi các nỗ lực tạo cộng đồng thất bại, một trong những lý do chủ yếu là vì nhóm đã cố gắng làm quá nhanh so với nguồn lực họ có.

Thách thức của toàn bộ hệ thống là nhận thức trung thực về phạm vi của cam kết và sau đó phát triển một cách tiếp cận cho phép cộng đồng phát triển một cách bền vững. Nói cách khác, tính bền vững không chỉ là đặc tính của một cộng đồng “hoàn chỉnh”, nó cần phải là một phần của suy nghĩ và thói quen của nhóm ngay từ đầu. Xây dựng một ngôi làng sinh thái thành công đòi hỏi sự cân bằng của các hoạt động giữa 3 giai đoạn chính 1) nghiên cứu & thiết kế 2) kiến tạo và thực hiện 3) bảo dưỡng – cho từng lĩnh vực khó khăn. Dưới đây là sơ đồ đơn giản thể hiện mối quan hệ  giữa những khó khăn này:

Toàn bộ hệ thống

                   Hệ sinh học

          Môi trường xây dựng

               Hệ thống kinh tế

                      Quản trị

Keo dính

Đây là sơ đồ của một “khối công trình”, trong đó một số phần của hệ thống “dựa vào” các phần khác. Hệ thống sinh học và Môi trường xây dựng cho thấy những yêu cầu rõ ràng và dễ nhận ra nhất của một làng sinh thái. Chúng là nhưng viên gạch “”mái”.

Di chuyển xuống dưới, sơ đồ cho thấy sự thành công trong Hệ thống sinh học và Môi trường xây dựng dựa trên nền tảng đối phó thành công với những thách thức về kinh tế và quản trị. Tiếp theo, thành công trong những lĩnh vực này lại phụ thuộc vào những thành công giải quyết khó khăn trong “keo dính”.

Cuối cùng, tất cả các lĩnh vực đều phụ thuộc vào việc giải quyết thành công những khó khăn của toàn hệ thống. Nó bao hàm, chứ không nằm dưới, những lĩnh vực khác. Nó không phải là một tòa nhà mà là một thực thể sống động.

Với những khó khăn này, chẳng có gì ngạc nhiên cho tới hôm nay chưa có cộng đồng nào thực hiện được mọi lý tưởng của làng sinh thái. Đây là tin xấu. Tin tốt là có nhiều cộng đồng và các nhóm đã đạt tiến bộ đáng kể trong giải quyết những khó khăn này. Thậm chí, có một số cộng đồng trong vài năm tới sẽ được coi là làng sinh thái hoàn chỉnh.

Robert Gilman 

Hạnh Liên dịch

Để lại một bình luận