Mô hình Đồng quản lý rừng của người Cơ Tu ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

 

Đối với rừng đầu nguồn trong đó có cả rừng nguyên sinh thì mô hình Đồng quản lý ở huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam là mô hình mới xuất hiện ở Việt Nam và đang phát huy hiệu quả cao trong thực tiễn. Mô hình dựa trên sự tạo quyền tối đa cho cộng đồng, bảo đảm sinh kế rừng truyền thống của cộng đồng và phát huy thế mạnh của vốn tri thức bản địa của người Cơ Tu, huyện Tây Giang.

Vài nét về khu vực triển khai mô hình

Khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn sông A Vương, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam là nơi cư trú chủ yếu của dân tộc Cơ Tu. Địa hình núi non hiểm trở, độ cao từ 1000 mét đến 2500 mét, phân cắt mạnh. Tuy nhiên, tại đây đã xuất hiện một mô hình Đồng quản lý rừng rất hiệu quả, mô hình bao phủ gần toàn bộ diện tích phần phía Tây của huyện Tây Giang, dọc theo đường biên giới Việt – Lào. Phía Việt Nam là thượng nguồn sông A Vương, phía Lào là thượng nguồn sông Se Kong – một dòng nhánh của sông Mê Kông.

 

Khu vực rừng phòng hộ có diện tích khoảng 450 hecta với trên 1200 cây Pơ-mu cổ thụ, độ tuổi khoảng 300 đến trên 1000, nằm toạ lạc trên đỉnh Trường Sơn ở độ cao trên dưới 1500 mét tại khu vực núi Zi’liêng thuộc hai xã A Xan và Tr’Hy (Tây Giang). Thảm rừng Pơ-mu thuần chủng được mệnh danh là “Vương quốc” Pơ-mu, Pơ-mu (Fokienia) là một chi trong họ Hoàng đàn, là một loại gỗ quý, có mùi thơm đặc trưng, vân gỗ đẹp không bị mối mọt. Nó là loài nguy cấp tại Việt Nam và được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam năm 1996. Cây Pơ-mu theo tiếng Cơ Tu là Hynghee, có nghĩa là cây thiêng.

“Cơ Tu” trong tiếng dân tộc Cơ Tu có nghĩa là “Con người ở đầu suối, ngọn sông”. Sinh kế chủ yếu của người Cơ Tu là nương rẫy, nghề rừng, dệt thổ cẩm, điêu khắc gỗ mỹ nghệ, trồng và chế biến tam thất. Văn hoá Cơ Tu là văn hoá đồng rừng có nhiều nét độc đáo khác với văn hoá các dân tộc khác cùng chung sống trên đỉnh Trường Sơn. Nhìn chung các di sản văn hoá Cơ Tu đều liên quan rất nhiều đến sinh kế rừng.

Tri thức bản địa và sinh kế truyền thống của người Cơ Tu về rừng là cơ sở của mô hình Đồng quản lý  

Năm 2010, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) nhấn mạnh rằng Indigenous Knowledge (IK) là một hệ thống tri thức, thường được gọi là tri thức bản địa hay tri thức truyền thống, là loại di sản “không thể hiểu thấu” (intangible) của nhân loại trên toàn cầu. Tri thức bản địa bao gồm các hiểu biết, kỹ năng và cả triết lý quyết định giao diện giữa hệ sinh thái và hệ xã hội, cũng như quyết định sự tương thích giữa thiên nhiên và văn hoá. Tri thức bản địa là loại tri thức địa phương – là duy nhất trong một nền văn hoá hay một cộng đồng nhất định.

Theo truyền thống của người Cơ Tu, những cây to trong rừng, hoặc là chỗ trú ngụ của thần linh hoặc là nơi linh hồn của người chết trú ẩn. Quan niệm này rất gần gũi với tín ngưỡng thờ cây của người Việt ở Bắc Bộ, thần cây bảo vệ dân làng khỏi thú dữ, bệnh tật, giữ nước, giữ đất và cung cấp các sản phẩm từ rừng cho cuộc sống của người dân. Việc chặt cây làm nhà phải có sự đồng ý của bản làng, phải làm lễ cúng để xin chặt cây. Người làng khác cũng không được xâm phạm phần đất, phần rừng của nhau.

Cây Pơ-mu được người Cơ Tu xem như người thân trong gia đình, là một loài gỗ quý linh thiêng nên từ xưa đến nay khi chọn đất lập làng, người Cơ Tu luôn tin rằng ở đâu có rừng, có sông, suối, ở đó làng mới tồn tại và phát triển. Rừng luôn được xem như vị thần linh, ân nhân vĩ đại, linh thiêng của làng, nếu xâm hại rừng rừng sẽ làm dân làng ốm đau, không sinh con đẻ cái được, bùng phát dịch bệnh, thiên tai lũ lụt… Người xâm hại rừng sẽ bị làng phạt vạ, thậm chí bị đuổi khỏi làng. Từ xa xưa việc làm nương rẫy của người Cơ Tu luôn được các già làng họp bàn kỹ lưỡng và khi chấp hành tốt các yêu cầu của già làng họ mới được phát rẫy. Khu vực phát rẫy thường là đất rừng không non quá, không già quá, cấm tuyệt đối phát rẫy nơi khu rừng có nghĩa địa, rừng thiêng (khu rừng có nhiều gỗ quý), rừng đầu nguồn… Khi làm nhà ở, làm nhà Gươl của làng (nhà làng, có chức năng giống nhà Rông của nhiều dân tộc Tây Nguyên) thì việc chọn cây, việc cúng thần cây luôn được già làng bàn kỹ, chặt cây nào, ở đâu để không gây hại đến cây con. Nếu già làng không đồng ý thì không được chặt. Việc khai thác các sản phẩm rừng theo truyền thống Cơ Tu từ ngàn xưa đến giờ chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng địa phương, không sản xuất hàng hoá để thương mại hoá sản phẩm. Vì thế mà bao đời nay rừng không bị cạn kiệt. Hiện nay ở Tây Giang, chỉ có thổ cẩm và tam thất (được thâm canh từ các vườn rừng) là những mặt hàng được bán ít nhiều ra ngoài huyện.

Nhờ tuân thủ nghiêm ngặt quy định này, rừng đầu nguồn Tây Giang vẫn được bảo vệ từ ngàn đời nay dù rằng sinh kế truyền thống của người Cơ Tu chủ yếu là dựa vào rừng.

Mô hình Đồng quản lý rừng Tây Giang

Để bảo vệ rừng Pơ-mu nguyên sinh, từ nhiều năm trước, huyện Tây Giang đã thành lập đội quản lý với gần 30 thành viên, chủ yếu là thanh niên trai tráng để canh giữ không cho người ngoài vào rừng. Cây Pơ-mu được đánh số, gắn chip định vị để tiện theo dõi. Hằng năm, huyên cấp kinh phí để phục vụ việc bảo vệ cánh rừng Pơ-mu nguyên sinh được cho là quý hiếm nhất miền Trung – Tây Nguyên. Cả chính quyền huyện và cơ quan ban ngành địa phương, chính quyền các xã và dân làng các thông đều chung một mục tiêu bảo vệ bằng được cánh rừng Pơ-mu để gìn giữ cho thế hệ con cháu. Bởi, còn rừng nghĩa là một phần hồn cốt văn hoá truyền thống Cơ Tu sẽ còn.

Người dân muốn khai thác sản phẩm rừng cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, kể cả xin gỗ làm nhà, phải xin phép chính quyền và được già làng đồng ý sau khi xem xét thảo luận kỹ lưỡng. Những vi phạm đều bị xử phạt rất nặng. Mô hình Đồng quản lý rừng Tây Giang có những đặc điểm sau đây:

  1. Mặc dù vấn đề bảo vệ rừng đầu nguồn vẫn tuân theo quy định của pháp luật, nhưng cộng đồng địa phương được tạo quyền rất lớn. Văn hoá rừng (tri thức bản địa) được tôn trọng và áp dụng tối đa trong hoạt động quản lý bảo vệ rừng, trong đó, vai trò của già làng được đề cao. Hoạt động của đội bảo vệ rừng cộng đồng luôn được sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, kể cả được đầu tư kinh phí và xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý (đánh số cây, gắn chip vào các cây quý, làm đường tuần tra…), nhưng mô hình Đồng quản lý đã bảo đảm tôn trọng vị thế, chủ quyền của  cộng đồng địa phương đối với những cánh rừng truyền thống của họ.
  2. Bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn nhưng không hạn chế sinh kế truyền thống lâu đời của cộng đồng. Các nguồn lợi từ rừng vẫn được cung ứng cho cuộc sống của người dân khiến cho người dân cảm thấy rõ ràng việc bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính mình. Không hề cách ly người dân với nguồn lợi rừng vì nếu tách người dân khỏi nguồn lợi rừng sẽ cơ hội làm cho người dân thành lâm tặc.
  3. Không khai thác cạn kiệt rừng hay chuyển đổi rừng thiêng sang canh tác cây công nghiệp hay phát triển công nghiệp địa phương. Tây Giang đã xác định phát triển du lịch, trong đó du lịch sinh thái, du lịch trên cơ sở cộng đồng, du lịch di sản,… là thế mạnh và hướng đi chính của miền núi cao Tây Giang. Thế mạnh này khai thác được vốn di sản văn hoá và sinh thái giàu tiềm năng của vùng đất này trong khi môi trường vẫn được bảo vệ.
  4. Mô hình Tây Giang khác với các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ rừng ở nhiều nơi khác chính là ở chỗ nó thừa kế và phát huy phong tục bảo vệ rừng cả ngàn năm qua của cả một cộng đồng dân tộc. Nó khẳng định quyền sở hữu và quyền sử dụng tài nguyên rừng của cả cộng đồng, qua đó góp phần bảo tồn văn hoá truyền thống gắn kết và nảy sinh từ rừng của cả một dân tộc cũng như góp phần bảo đảm an ninh sinh kế địa phương. Những mục tiêu rộng lớn này không có một mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ rừng nào (đã có) so sánh được. Đây là những nét đặc sắc nhất của mô hình Đồng quản lý rừng Pơ-mu Tây Giang.

Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam – Biên tập bởi Sống Tỉnh Thức

Tài liệu tham khảo:

[1] Kinh tế xanh cho phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 2018

[2] Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn, Nguyễn Ngọc Sinh (chủ biên), 2011

[3] Indigenous Knowledge in Global Policies and Practice for Education, Science and Culture UNESCO: Paris, 2010

[4] Quảng Nam: Độc đáo “Văn hoá kiêng cử, giữ rừng” của người Cơ Tu ở Tây Giang, Pơloong Plênh

[5] https://laodong.vn/phong-su/rung-pomu-hung-vi-doc-nhat-vo-nhi-con-sot-lai-o-viet-nam-526505.ldo

[6] https://nguoitieudung.vn/nguoi-co-tu-ta-on-rung-d24905.html

[7] http://baoquangnam.vn

[8] https://dulichtafi.blogspot.com

Để lại một bình luận